Đặc điểm của muỗi Anopheles
nopheles là loài muỗi nổi tiếng với khả năng truyền căn bệnh sốt rét nguy hiểm. Muỗi Anopheles theo tiếng Hi Lạp nghĩa là “vô ích” bởi chúng đã giết chết hơn 1 triệu người mỗi năm trên con đường khát máu của mình. Muỗi Anopheles được phân tích lần đầu tiên vào năm 1818 bởi nhà côn trùng học người Đức Johann Wihelm Megien. Người mắc phải bệnh sốt rét lây truyền qua muỗi Anopheles cái. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 30 – 40 loài Anopheles có khả năng truyền bệnh sốt rét.
Muỗi Anopheles là một trong 41 phân họ muỗi trên khắp thế giới. Trong khoảng 3500 loài muỗi, gần 430 loài thuộc họ Anopheles. Nơi duy nhất muỗi Anopheles không xuất hiện là Nam Cực. Muỗi Anopheles trải qua 4 giai đoạn riêng biệt trong vòng đời-trứng, bọ gậy, nhộng và muỗi trưởng thành. Giai đoạn trứng, bọ gậy và nhộng diễn ra trong nước sau đó thành muỗi trưởng thành bay lên khỏi mặt nước và di chuyển đến nơi khác.
Các giai đoạn hình thành và phát triển
Giống với những loài muỗi khác, vòng đời sinh trưởng muỗi Anopheles cũng sẽ trải qua gồm 4 giai đoạn phát triển (trứng, ấu trùng, nhộng và muỗi trưởng thành). Ba giai đoạn đầu tiên sống trong nước và kéo dài từ 5 đến 14 ngày tùy thuộc vào loài và nhiệt độ môi trường xung quanh. Giai đoạn trưởng thành chính là lúc muỗi Anopheles cái hoạt động như một vật trung gian truyền bệnh sốt rét. Muỗi cái trưởng thành có thể sống đến một tháng (hoặc lâu hơn) nhưng hầu hết trong tự nhiên, chúng chỉ sống được từ 1 – 2 tuần.
Trứng
Muỗi cái trưởng thành đẻ từ 50 đến 200 trứng cho mỗi lần sinh sản. Trứng đẻ đơn lẻ trực tiếp vào nước và đặc biệt hơn những loài khác, trứng của muỗi Anopheles có phao nổi ở hai bên. Trứng không chịu được khô hạn và nở chỉ trong vòng 2 đến 3 ngày và có thể mất 2 đến 3 tuần trong vùng khí hậu lạnh hơn.
Ấu trùng
Ấu trùng muỗi có phần đầu phát triển mạnh, ngực lớn và bụng được phân đoạn. Chúng không có chân. Trái với những loài muỗi thông thường khác, ấu trùng muỗi Anopheles không có vòi hô hấp. Vì vậy cơ thể chúng phải song song với mặt nước để phục vụ cho quá trình hô hấp. Ấu trùng muỗi hô hấp qua lổ thở nằm ở đốt thứ 8 của bụng, vì thế chúng phải ngoi lên mặt nước thường xuyên. Nguồn thức ăn của ấu trùng bao gồm tảo, vi khuẩn và vi sinh vật khác trong nước. Chúng lặn xuống dưới bề mặt khi bị quấy rầy. Ấu trùng bơi cũng như nẩy lên nhờ lực đẩy với bàn chải quanh miệng. Ấu trùng lột xác qua 4 giai đoạn rồi biến thành nhộng. Ở cuối mỗi lần lột xác, ấu trùng thay lớp vỏ ngoài để tiếp tục phát triển. Ấu trùng diễn ra ở rất nhiều môi trường sống nhưng đa số các loài đều ưa thích nguồn nước sạch sẽ, không bị ô nhiễm. Ấu trùng muỗi Anopheles được tìm thấy ở đầm lầy nước ngọt và nước mặn, đầm ngập mặn, ruộng, mương, cạnh các con suối, sông, và ở những vũng nước mưa tạm thời.
Nhộng
Khi nhìn từ một phía, nhộng có hình dấu phẩy. Đầu và ngực được nối với phần bụng uốn cong. Giống với ấu trùng, nhộng thường xuyên ngoi lên bề mặt nước để thở thông qua cặp vòi hô hấp trên phần đầu ngực. Sau một và ngày, mặt lưng của phần đầu ngực tách ra và muỗi trưởng thành xuất hiện.
Quá trình phát triển từ trứng đến muỗi trưởng thành khác nhau giữa các loài và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi nhiệt độ xung quanh. Muỗi có thể phát triển từ trứng sang muỗi trưởng thành ít nhất là 5 ngày nhưng giai đoạn đó có thể kéo dài từ 10 – 14 ngày với thời tiết nhiệt đới.
Muỗi trưởng thành
Giống với những loài muỗi khác, muỗi trưởng thành anopheles có thân hình mảnh dẻ với 3 phần: đầu, ngực và bụng. Phần đầu có cấu tạo đặc biệt để cảm nhận thông tin. Đầu bao gồm mắt, cặp râu dài và được phân thành nhiều đoạn. Râu rất quan trọng trong việc phát hiện mùi của vật chủ cũng như mùi của khu vực sinh sản nơi muỗi cái đẻ trứng. Phần đầu cũng có một cái vòi dài dùng để hút máu và 2 xúc tu cảm giác. Ngực có chức năng hoạt động. Ba cặp chân và cặp cánh được gắn với phần ngực. Bụng có chức năng tiêu hóa thức ăn và phát triển trứng. Phần đốt trên cơ thể sẽ nở ra khi muỗi cái hút máu. Máu được tiêu quá qua thời gian cung cấp protein cho sản sinh trứng dần chuyển xuống phần bụng.
Muỗi Anopheles có thể phân biệt với những loài muỗi khác thông qua cặp xúc tu dài bằng vòi và có những khối màu đen và vảy trắng trên cánh. Muỗi Anopheles cũng có thể được nhận diện thông qua tư thế nghỉ: muỗi đực và muỗi cái hướng cơ thể chếch một góc 45 độ so với bề mặt. Mặc dù giống nhau về hình dạng tuy nhiên cũng có một vài đặc điểm dùng để phân biệt giữa muỗi cái và muỗi đực. Muỗi trưởng thành thường giao phối trong vòng một vài ngày sau khi phát triển từ giai đoạn nhộng.
Muỗi Anopheles là một trong những sinh vật trung gian truyền bệnh nguy hiểm nhất trong thế giới côn trùng, tiêu biểu là bệnh sốt rét. Số người chết do sốt rét trên khắp thế giới lên đến 1 triệu người mỗi ngày. Sốt rét chủ yếu bùng phát ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, hầu hết người tử vong do sốt rét là trẻ em và phụ nữ mang thai, các đối tượng này có hệ miễn dịch chưa phát triển hoặc bị suy yếu do mang thai và không có sức đề kháng với sốt rét. Không chỉ truyền nhiễm bệnh dịch nguy hiểm như sốt rét, muỗi Anopheles còn truyền nhiễm giun chỉ và một số bệnh do Arboviruses gây ra.